HỌC SẴN SÀNG THA THỨ ĐỂ ĐƯỢC CHÚA THỨ THA
(Mt 18,21-35)
1) Người hành khất có lòng khoan dung tha thứ:
Văn hào Nga LÊ-ÔNG TÔN-TOI (Léon Tolstoi) có kể một câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Có một lão hành khất kia đứng trước cửa nhà của một người phú hộ để xin bố thí. Nhưng thay vì bố thí cho kẻ nghèo, người phú hộ kia lại nhặt một hòn đá ném vào lão ăn mày để xua đuổi đi. Bị hòn đá ném trúng vào mặt, máu chảy đầm đìa, lão hành khất tức giận lắm, nhưng không làm gì được. Sau khi băng tạm vết thương, lão ta đã nhặt lấy cục đá ném mình cho vào bị, rồi tự nhủ: “Ta sẽ mang theo hòn đá này cho đến ngày mi bị sa cơ thất thế. Bấy giờ ta sẽ dùng chính nó để ném trả vào mặt mi”. Nhiều năm sau, lời chúc dữ của lão hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận công quỹ, nên người phú hộ đã bị bắt và còn bị tịch biên toàn bộ tài sản. Trong lúc lính đến vây bắt ông ta, thì lão hành khất kia cũng có mặt ở đó. Lòng căm hận ngày xưa giờ đây lại có dịp bùng phát trở lại. Lão ta cứ bám theo đám người áp tải kia, tay nắm chắc hòn đá năm xưa để chờ cơ hội ném tên phú hộ rửa hận. Nhưng đến khi nhìn thấy gương mặt tiều tụy hốc hác của người này, thì một sự thương cảm lại nổi lên trong lòng lão. Lão tự nhủ: “Bây giờ thì tên phú hộ này cũng chỉ là một kẻ khố rách áo ôm còn khổ hơn ta. Hắn vừa mất hết tài sản, lại còn bị cùm trong ngục tối không biết đến khi nào. Như vậy là ông Trời đã trả báo điều dữ xưa hắn đã làm cho ta rồi. Vậy ta cần chi phải báo oán nữa?”. Nghĩ thế rồi, lão hành khất buông tay ra cho hòn đá rơi xuống đất và bỏ đi nơi khác.
2) Xây dựng một tình yêu đại đồng:
Trong cuốn tiểu thuyết “MẶT TRẬN PHÍA TÂY VẪN YÊN TĨNH” (All quite on the Western), tác giả đã thuật lại câu chuyện cảm động về hai người lính Đức và Pháp như sau:
“Lúc đó cuộc chiến đang diễn ra rất ác liệt giữa quân đội hai nước Đức và Pháp. Một chú lính Đức còn trẻ đang nằm sát dưới một cái hố để tránh đạn pháo. Bỗng nhiên chú ta thấy một người lính Pháp cũng nhảy vào trong hố để tránh đạn đang nổ ầm ầm chung quanh. Trước khi người lính Pháp nhận ra kẻ thù, thì chú lính Đức kia đã đâm anh ta một nhát trúng bụng, khiến anh ta ngã ra bất tỉnh. Bấy giờ chú lính Đức kia chăm chú vào cặp mắt thất thần của kẻ thù. Chú ta thấy người này do máu ra nhiều nên đang há miệng thở hắt ra rất gấp. Môi anh ta bị khô như sắp nứt nẻ. Chú lính Đức liền động lòng trắc ẩn, chú ta lấy ra bình nước đang đeo bên mình cho kẻ thù sắp chết kia uống. Sau khi uống xong mấy ngụm nước thì người lính Pháp tắt thở. Cái chết của anh ta khiến chú lính Đức đột nhiên cảm thấy hối hận vì đã giết chết anh ta. Đây là lần đầu tiên chú nhúng tay vào máu. Chú ta tò mò muốn biết tên của kẻ kia. Khi lần túi quần người chết, chú ta lôi ra một chiếc ví da, trong đó có gắn hình người phụ nữ khá đẹp đang bế một bé gái khoảng ba bốn tuổi, mà chú ta đoán là vợ con của người lính Pháp này. Chú ta chợt nhận ra anh ta không phải là kẻ thù của chú, nhưng là một người chồng và một người cha, là một người cũng biết yêu và muốn được yêu, giống như chú vậy. Chú liền lấy ra một quyển sổ tay để ghi địa chỉ của người chết, và giữ lại tấm hình kia, mà chú định viết thư cho vợ con anh ta để bày tỏ lòng hối tiếc, đồng thời xin lỗi vợ con của người bị chú giết chết”.
Chính nhờ biết thay đổi cách nhìn, mà chú lính Đức đã nhận ra người lính Pháp không phải là kẻ thù, nhưng là một người anh em giống như chú, một người chồng và người cha đang mong sớm chấm dứt chiến tranh để được trở về sống hạnh phúc bên vợ con.
3) Sẵn sàng tha cho kẻ thù ghét giết hại mình:
Cha KÍT-XI-ĂNG XÉC-GHÊ (Christian de Chergé) và 6 tu sĩ đã được bề trên phái đi truyền giáo tại một nước Hồi giáo xa xôi. Các nhà lãnh đạo tôn giáo ở đây đã làm đủ cách để hạ uy tín và trục xuất các ngài. Nhưng các tu sĩ không nao núng và vẫn kiên trì với ơn gọi thừa sai. Cuối cùng các người lãnh đạo quyết định giết các ngài. Khi được mật báo mình sắp bị giết, cha Xéc-ghê đã viết một bức thư để sẵn trong túi áo. Ngài viết để gửi cho những kẻ thù ghét đang kéo đến giết hại mình. Nội dung bức thư có đoạn viết như sau: “Và cả bạn nữa, một người bạn giây phút cuối cùng cuộc đời tôi. Bạn đã không hiểu biết việc bạn đang làm. Tôi cầu xin Chúa cho hai chúng ta đều là những kẻ trộm lành. Chúng ta hy vọng sẽ được gặp nhau trên quê trời. Nơi đó chúng ta sẽ được ở với Thiên Chúa là Cha chúng ta”. Lời lẽ trong bức thư không chút hờn oán.
Cha Xéc-ghê đã coi kẻ sắp giết mình như là một người bạn, một người trộm lành giống như cha, và cha mong ước sau này sẽ gặp được anh ta ở trên trời. Thật là một sự tha thứ phi thường giống như Đức Giêsu đã xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đã giết hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Đó cũng phải là thái độ và là nội dung lời cầu của mỗi tín hữu chúng ta.
4) Để dễ tha thứ cần khiêm tốn nhận mình cũng bất toàn:
Một hôm gà con cứ theo bám riết lấy gà mẹ. Nó vừa khóc vừa kể cho mẹ nghe về nỗi uất ức ma nó đang phải chịu. Nó nói: “Mẹ ơi, tụi thỏ dám nhạo con rằng tai con chỉ bằng một góc tai của chúng”. Gà mẹ trả lời: “Con đừng để tâm đến những lời bọn thỏ nói làm chi, và hãy tha thứ cho chúng, con nhé!”. Gà con chưa chịu thua tiếp tục tố cáo: “Nhưng bọn cò lại bảo con rằng: con chỉ cao bằng một phần năm cẳng chân của chúng!” Gà mẹ lại an ủi con: “Con ơi! Đừng chấp với chúng làm chi!” Nghe mẹ nói thế, gà con uất ức khóc to lên và nói: “Mẹ! Lúc nào mẹ cũng nói là phải tha cho chúng, đừng thèm chấp với chúng. Còn con thì cứ phải chịu đựng bị bọn chúng cười nhạo chế diễu hoài! Tại sao vậy hả mẹ?” Bấy giờ gà mẹ mới ôn tồn nói với gà con: “Tại vì bọn chúng nói đúng mà con!”. Gà con hỏi tiếp: “Sao lại đúng hả mẹ?”. Gà mẹ trả lời: “Tại vì con thật ra cũng chỉ là một con gà mà thôi!”.
Giống như chú gà con kia, chúng ta thường cảm thấy bị xúc phạm và khó lòng tha thứ cho những kẻ dám cười nhạo khinh thường chúng ta, chỉ vì chúng ta không dám chấp nhận sự thật yếu đuối hèn kém của mình. Lòng khiêm tốn là điều kiện giúp chúng ta dễ dàng chấp nhận bỏ qua những lời nói hành nói xấu hay lời chế nhạo của kẻ khác đối với chúng ta.
5) Mau quên các lỗi phạm và luôn ghi nhớ công ơn của tha nhân:
Sự tha thứ và biết ơn luôn là những cách giúp chúng ta yêu quý cuộc sống, tránh được sự muộn phiền và lòng tràn ngập yêu thương. Nhưng để làm được điều ấy thật không dễ. Bài học về tha thứ và biết ơn từ câu chuyện của cát và đá sau đây sẽ mang đến cho chúng ta niềm vui tâm hồn.
Có hai người bạn thân cùng nhau đi trên sa mạc hoang vắng. Trong suốt cuộc hành trình, họ đã tranh cãi với nhau nhiều lần, đến một lúc, có một người trong phút nóng giận đã tát vào mặt anh bạn của mình. Khi đó, người bị tát dù cảm thấy rất buồn, nhưng anh ta chỉ lẳng lặng dùng ngón tay viết lên bãi cát bên cạnh: “Anh bạn đồng hành với tôi hôm nay đã đánh tôi”. Sau đó hai người tiếp tục đi.
Khi hai người đến một ốc đảo và quyết định nghỉ chân tại đây. Chẳng may, người bị đánh khi nãy bước vào chỗ đầm lầy bị lún, mà càng cố thoát ra thì lại càng bị lún sâu hơn. Rất may sau đó anh đã được người bạn kia cứu thoát khỏi chỗ lầy.
Sau khi đã bình tĩnh lại, anh đã dùng con dao đeo bên mình khắc lên phiến đá gần đó như sau: “Cám ơn anh bạn thân, vì đã cứu sống tôi khỏi vũng lầy”.
Anh bạn đã đánh và sau đó đã giúp đỡ ngạc nhiên hỏi: “Tại sao khi tôi đánh anh thì anh viết lên cát, còn bây giờ khi tôi cứu anh thì anh lại khắc lên đá? ”.
Người kia cười và trả lời như sau: “Mỗi khi chúng ta bị đối xử tệ bạc hoặc bị người khác làm tổn thương, chúng ta chỉ ghi sự tức giận lên cát, để với thời gian, gió cát sẽ xóa nhòa điều ấy. Còn khi chúng ta được giúp đỡ, chúng ta hãy trân trọng sự giúp đỡ đó và ghi khắc nó lên đá để sau này luôn nhớ đền đáp công ơn của họ. Chính điều này sẽ gia tăng nhân cách nơi chúng ta.
*3. SUY NIỆM:
1) Tại sao phải tha thứ?:
+ Tha thứ để đáng được thứ tha: Đức Giêsu dạy các môn đệ phải sẵn lòng tha thứ các lỗi lầm của anh em, để xứng đáng được Thiên Chúa tha thứ tội nợ lớn lao cho mình: Câu chuyện về tên đầy tớ độc ác vừa được tôn chủ tha cho số nợ vô cùng lớn lao là 10.000 nén vàng đang khi hắn chỉ dám xin ông cho khất nợ. Nhưng hắn đã không đối xử bao dung nhân ái như thế với một người bạn chỉ nợ hắn có 100 quan tiền. Hắn đã đòi xử lý để yêu cầu tống giam người kia vào tù, cho đến khi trả hết số nợ. Tôn chủ của hắn nghe biết đã nổi giận và đã xử lý với hắn giống như hắn đã làm cho người bạn kia. Ông yêu cầu tống giam hắn vào ngục, cho đến khi trả hết số nợ lớn lao, mà lẽ ra hắn đã được chủ tha vô điều kiện.
+ Đàng khác, tha thứ cũng là một cách để hóa giải thù hận như Đức Phật đã dạy: “Lấy oán báo oán, oán thù chồng chất. Lấy ơn báo oán, hóa giải oán thù”.
2) Phải tha thứ bao nhiêu lần?:
+ Phải tha luôn luôn: Về số lần tha thứ thì các Ráp-bi Do thái đã dạy chỉ tha thứ tối đa 3 lần: “Quá tam ba bận”. Ông Phêrô đề nghị với Thầy tha tới bảy lần và nghĩ rằng sẽ được Thầy khen ngợi. Nhưng ông thật bất ngờ khi Thầy đòi ông không những phải tha bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy. Nghĩa là phải tha luôn luôn, không có giới hạn và tha vô điều kiện (x. Mt 18,22).
+ Phải tha vô điều kiện: Qua bài dụ ngôn trong Tin Mừng: Đức Giêsu đòi các môn đệ phải sẵn sàng tha thứ, không phải vì kẻ có tội đã biết nhận lỗi, cũng chẳng phải để các ông có dịp lập thêm công đức, nhưng chỉ vì lòng xót thương. Chúa muốn các môn đệ hãy luôn tha thứ vì mình đã được Thiên Chúa tha cho món nợ khổng lồ là các tội đã phạm đến Chúa, nên cũng phải biết noi gương Chúa để sẵn sàng tha lỗi cho anh em mình.
3) Điều kiện để dễ tha thứ:
+ Theo bản tính tự nhiên, mỗi người chúng ta khó thoát khỏi cái vòng lẩn quẩn tranh chấp và báo oán. Luật “mắt đền mắt, răng thế răng” tuy có giúp chúng ta trả oán công minh, nhưng chính nó lại là nguyên nhân khiến thế giới này lâm vào tình trạng chiến tranh hận thù liên miên. Chỉ khi con người sẵn sàng tha thứ thì họ mới có thể sống chung hòa bình và được hạnh phúc thực sự.
+ Tha thứ đồng nghĩa với chịu thiệt thòi. Khi chấp nhận tha thứ là ta công nhận tình thương sẽ đánh tan băng giá. Tình thương sẽ làm cho trái tim chai đá của chúng ta biến đổi nên mềm mại để tiếp tục rung động và chạnh lòng xót thương những kẻ đau khổ tội lỗi noi gương Chúa Giêsu.
4) Làm gì để thực hành sự tha thứ?
Việc tha thứ cho kẻ thù không dễ dàng, đòi mỗi chúng ta phải quyết tâm áp dụng các phương thế giúp chúng ta dễ tha thứ cho kẻ đã xúc phạm đến chúng ta như sau:
+ Một là kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như cành nho tháp nhập vào thân cây nho như lời Đức Giêsu: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
+ Hai là nhớ lại chúng ta đã được Chúa tha cho bao tội lỗi, nên chúng ta cũng phải sẵn sàng tha thứ cho những xúc phạm của kẻ khác, như ông chủ đã trách con nợ trong Tin Mừng: “Tên đầy tớ độc ác kia. Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin Ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao? “ (Mt 18,32-33).
+ Ba là coi kẻ có lỗi đang bị lầm lạc, như Đức Giêsu đã cầu xin Chúa Cha tha tội cho những kẻ hành hạ mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
+ Bốn là hãy năng nhắc lại lời Chúa dạy tha thứ kèm theo lời cầu nguyện như sau: “Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6,37), “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12).