Chúa Nhật 17 Thường Niên Năm C

Chủ đề: CẦU NGUYỆN THẾ NÀO CHO PHẢI

“Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”
(Lc 11,13) St 18,20-32; Cl 2,12-14; Lc 11,1-13

I. CÁC BÀI ĐỌC:

Cầu nguyện, cùng với ăn chay và bố thí, là việc đạo đức truyền thống trong bất kỳ tôn giáo nào, nhưng không phải ai cũng biết cầu nguyện đúng cách. Các bài đọc lời Chúa hôm nay không những đề cao tầm quan trọng của cầu nguyện, mà còn dạy người ta cách cầu nguyện thế nào cho phải. Bài Tin Mừng hôm nay hàm chứa nội dung “Kinh lạy Cha” mà chúng ta đọc hằng ngày. Tuy nhiên, Tin Mừng theo thánh Mátthêu đầy đủ hơn (có bảy lời cầu xin) và nhấn mạnh đến tâm tình cầu nguyện, trong khi Tin Mừng theo thánh Luca lại nhấn mạnh đến nội dung lời cầu nguyện, và chỉ đề cập 5 điều (không đề cập đến các điều 3 và 7 như trong Mt).

1. Bài đọc 1: St 18,20-32

Bài đọc I thuật lại câu chuyện ông Ápraham chuyển cầu qua việc “thương lượng” với Đức Chúa để Ngài không giáng phạt tội lỗi của kẻ dữ cho thấy hai điều: 1) Thiên Chúa là Đấng dễ động lòng thương xót trước lời cầu khẩn chân thành và bền bỉ của người công chính; 2) lòng thành của một số ít người lành cũng có thể trở nên cơ hội cho toàn dân được cứu.

Trước hết, sự kiên trì khẩn cầu của ông Ápraham có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Dù biết mình “chỉ là thân tro bụi”, ông Ápraham không ngừng khẩn cầu xin Thiên Chúa bỏ ý định giáng phạt Sôđôma và Gômôra. Cuộc “thương lượng” của ông Ápraham với Thiên Chúa cho thấy rằng Thiên Chúa không phải là Đấng bất di bất dịch, cứng nhắc trong ý định của Ngài, nhưng vì lòng thương xót, Ngài có thể thay đổi. Trong sáu lần khẩn cầu với Thiên Chúa, ông Ápraham đều được Ngài chấp nhận. Quả thật, lời cầu khẩn của người công chính luôn có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Ngài thay đổi ý định giáng phạt vì lời khẩn cầu của Ápraham.

Sau nữa, Thiên Chúa là Đấng không muốn bỏ sót bất cứ người lành nào. Cuộc “thương lượng” của ông Ápraham với Thiên Chúa xoay quanh lý lẽ rằng “chẳng lẽ Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ dữ sao?” (St 18,23). Phẩm giá của “người lành” luôn có giá trị đặc biệt trước mặt Thiên Chúa, đến nỗi Ngài không muốn bỏ sót bất cứ người nào. Dù cuộc thương lượng của ông Ápraham cuối cùng chỉ dừng lại ở con số “mười người lành”, nhưng có lẽ câu chuyện muốn cho thấy rằng Thiên Chúa không những không tiêu diệt người lành cùng với kẻ dữ, mà còn vì một số ít người lành mà sẵn sàng thứ tha và cứu vớt một số đông kẻ dữ.

Câu chuyện một mặt đề cao giá trị của lời khẩn cầu của người công chính trước mặt Thiên Chúa, mặt khác cho thấy phẩm giá vô song của “người lành” đến nỗi Thiên Chúa không nỡ trừng phạt một số đông “kẻ dữ” chỉ vì thương một số ít “người lành”.

2. Bài đọc 2: Cl 2,12-14

Cái giá phải trả cho tội lỗi là sự hủy diệt, là sự chết như trường hợp của cư dân thành Sôđôma và Gômôra, như được thuật trong bài đọc I. Còn theo thánh Phaolô, trong Bài đọc II trích thư gửi tín hữu Côlôxê, tội lỗi cũng dẫn con người tới cái chết, nhưng lại được cứu nhờ Phép rửa trong Đức Kitô.

Trước hết, nhờ Phép rửa, con người được cùng mai táng với Đức Kitô và được cùng trỗi dậy với Người. Quả vậy, một khi được dìm vào trong nước qua Phép rửa, con người như chết đi cho tội lỗi, được mai táng với Đức Kitô, để khi bước ra khỏi nước, con người như được trỗi dậy với Người, được mặc lấy sự sống mới của Người. Qua Phép rửa, con người được biến đổi, từ tình trạng tội lỗi đến tình trạng được thánh hóa nhờ ân sủng; từ con người cũ thành con người mới trong Chúa Kitô, Đấng đã chết, nhưng đã sống lại để tha tội và ban sự sống cho những ai tin và chịu Phép rửa nhân danh Người.

Sau nữa, nhờ Phép rửa, con người được “hủy bản văn tự bất lợi” do các giới luật gây ra (x. Cl 2,14). Thật vậy, Luật Môsê cố gắng giúp người ta đi đúng đường lối Chúa, ngăn người ta lạc lối, phạm tội, nhưng lại trở thành dịp tội khi người ta không thể giữ trọn vẹn Lề luật dù đã ý thức các điều tội lỗi, dẫn đến án phạt là sự chết (x. Rm 7,7-25). Lề luật trở nên như cuốn sổ ghi nợ những khi người ta không giữ trọn. Qua Phép rửa, Đức Kitô “hủy bản văn tự bất lợi” và cho con người sống trong tình trạng tự do của con cái Thiên Chúa, thoát khỏi tình trạng nô lệ cho tội lỗi.

Như thế, Phép rửa trong Đức Kitô vừa “hủy bản văn tự bất lợi” do các giới luật gây ra, giải thoát khỏi cái chết do tội, vừa cho tham dự vào sự sống mới của Đức Kitô, Đấng đã chiến thắng sự chết.

3. Bài Tin Mừng: Lc 11,1-13

Đoạn Tin Mừng vừa làm nổi bật sự cần thiết của việc cầu nguyện, vừa cho thấy thái độ cần có khi cầu nguyện và nội dung của việc cầu nguyện.

Trước hết, đoạn Tin Mừng cho thấy sự cần thiết của việc cầu nguyện. Cầu nguyện, theo truyền thống Do thái, là một trong ba việc đạo đức truyền thống, cùng với ăn chay và bố thí. Ông Gioan Tẩy Giả, một người sống nhiệm nhặt và đạo đức theo truyền thống Do thái, hẳn rất đề cao việc cầu nguyện, đồng thời dạy các môn đệ cách thức cầu nguyện. Chúa Giêsu cũng là bậc thầy trong việc cầu nguyện. Người thường dành thời gian riêng để cầu nguyện với Chúa Cha. Hẳn các môn đệ đã nhìn thấy nơi Chúa Giêsu như là gương mẫu cầu nguyện và muốn học theo Người. Trong khi theo Tin Mừng Mátthêu, chúa Giêsu chủ động dạy các môn đệ cách thức cầu nguyện thì Tin Mừng Luca lại cho thấy các môn đệ xin Chúa Giêsu dạy cầu nguyện.

Kế đến, đoạn Tin Mừng cho thấy nội dung của lời cầu nguyện. Dù nội dung của lời cầu nguyện trong Tin Mừng Luca ngắn hơn so với Mátthêu nhưng vẫn làm nổi bật những điểm quan trọng thiết yếu. Cầu nguyện trước hết là hướng về Thiên Chúa là Cha mà thân thưa với Ngài, xin Ngài làm cho danh thánh của Ngài được mọi người nhận biết và tôn thờ; đồng thời, xin cho Triều Đại của Ngài được mau hiển trị. Sau đó lời cầu nguyện mới hướng đến các nhu cầu của con người về lương thực, về ơn tha thứ và được gìn giữ khỏi chước cám dỗ. Như thế, lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa phải là lời cầu nguyện ưu tiên trước hết cho việc tôn vinh Thiên Chúa, rồi mới đến những điều giúp cuộc sống con người được tốt lành, hạnh phúc và bình an.

Cuối cùng, đoạn Tin Mừng nhấn mạnh thái độ cầu nguyện. Thái độ cầu nguyện cần có trước tiên phải là sự kiên trì. Như người bạn “cứ lì ra đó” cho đến khi nhận được điều mình mong muốn (Lc 11,8), thì Thiên Chúa đâu nỡ chối từ lời cầu xin tha thiết của con người. Điều Ngài chờ đợi nơi con người là sự kiên trì trong lời cầu xin. Thêm nữa, cần có thái độ tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha trên trời rằng những gì“xin thì sẽ được, tìm thì sẽ gặp, và gõ cửa thì sẽ mở cho”, vì Thiên Chúa là cha tốt lành, Đấng hằng “ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người” (Lc 11,13).

II. GỢI Ý SUY NIÊM:

1. “Abraham thưa: “Lạy Chúa, xin đừng nổi giận, con chỉ xin thưa lần này nữa thôi: Nếu tìm được mười người công chính ở đó thì sao?” Chúa phán: “Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá”. Câu chuyện ông Ápraham “thương lượng” với Thiên Chúa để xin Ngài hãy vì một số ít người lành mà đừng đánh phạt những kẻ dữ cho thấy lòng khoan dung của một Thiên Chúa, Đấng sẵn sàng thay đổi quyết định trước lời khẩn cầu tha thiết của người công chính. Thay vì chỉ biết chê trách kẻ dữ thì chúng ta có thể nỗ lực trở thành “người lành” để vì một số ít “người lành” đó, Thiên Chúa sẽ không nỡ trừng phạt số đông “kẻ dữ” và qua đó khiến họ ăn năn mà được cứu. Sự kiên trì cầu khẩn của ông Ápraham, là một “người lành”, đã làm cho Thiên Chúa động lòng mà tha thứ cho kẻ tội lỗi. Tôi có đang kiên trì cầu khẩn với một Thiên Chúa giàu lòng khoan dung và sẵn sàng tha thứ? Tôi có cầu nguyện với vị Thiên Chúa thật thân quen, thật gần gũi, đến độ tôi có thể trò chuyện, cò cưa trả giá với Người ở bất cứ đâu hay bất kỳ lúc nào. Mỗi chúng ta đã có thói quen trò chuyện với Chúa mỗi ngày về mọi nỗi vui buồn trong cuộc sống đức tin của chúng ta chưa?

2. “Nhờ phép rửa tội, anh em đã được mai táng làm một với Ðức Kitô, anh em cũng được sống lại với Người”. Thánh Phaolô nhấn mạnh tầm quan trọng của Phép rửa. Quả vậy, Phép rửa trong Đức Kitô vừa “hủy bản văn tự bất lợi” do các giới luật gây ra mà giải thoát con người khỏi cái chết do tội, vừa cho con người tham dự vào sự sống mới của Đức Kitô, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Tôi có ý thức về sức mạnh của Phép rửa trong Đức Kitô mà tôi đã lãnh nhận? Tôi có để cho sự sống mới của Đức Kitô biến đổi con người tội lỗi của tôi?

3. “Hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho”. Nhân cơ hội các môn đệ xin Đức Giêsu dạy các ông cầu nguyện, Người đã cho các ông thấy tầm quan trọng của cầu nguyện, đồng thời dạy các ông rằng lời cầu nguyện xứng hợp nhất. Lời cầu xin ưu tiên trước hết cho việc tôn vinh Thiên Chúa và sự hiển trị của Nước Trời, rồi mới đến những điều giúp con người sống tốt lành và bình an. Khi cầu nguyện, hai thái độ cần phải có là kiên trì và tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha nhân lành, Đấng hằng lắng nghe lời cầu xin tha thiết của con người. Tôi có đang cầu nguyện đúng cách? Tôi có đang kiên trì cầu nguyện và hoàn toàn tin tưởng nơi Thiên Chúa là Cha nhân lành hằng yêu thương tôi theo cách riêng của Người?

Add Your Comment

Theo dõi thông tin từ Giáo xứ

Giáo xứ St. Helena, Philadelphia © 2024. All Rights Reserved.